Năm 1945 nạn đói kinh khủng xảy ra do chủ trương quản lý của Thực dân Pháp nên mái ấm gia đình tôi cũng đói mòn, đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cảm nhận của em về bài thơ Bếp lửaĐóng vai người cháy kể lại Bếp Lửa bằng văn xuôi Bài số 2Có
Thời Báo Newspaper Bài học về nạn đói - Thời Báo Newspaper Bài học về nạn đói Việt Nam cũng từng có nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 làm chết khoảng hai triệu người, xác chết nhiều đến không kịp chôn: xác người ăn xin gục chết bên lề đường, người nông
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân xây dựng thương hiệu trong quá trình quốc gia đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống dân chúng bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, "người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm ruộng không gặp ba
Khắp nơi nạn đói hoành hành, người chết hàng loạt, nặng nề và khủng khiếp nhất là nạn đói mùa xuân năm 1945 - hơn hai triệu đồng bào chết đói. - Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân khiến cho số người mù chữ trong nước lên đến 90%.
Những vần thơ như một thước phim tái hiện khoảng thời gian ấu thơ của cháu có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn, có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Bao kỉ niệm ùa về, lay động lòng người: "Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giơ sống mũi
. Nỗi kinh hoàng của một sự kiện lịch sử đau thươngNạn đói năm 1945 đã từng được ví là “sự hủy diệt khủng khiếp” trong lịch sử vốn đã quá nhiều đau thương, mất mát của dân tộc Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng những nỗi đau để lại từ “sự hủy diệt khủng khiếp” ấy dường như vẫn còn đó, khôn tịch Hồ Chí Minh đã từng so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của cuộc chiến tranh Pháp- Đức, Người viết “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn 2 triệu người…” Trích Hồ Chủ Tịch hô hào chống nạn đói năm 1945.Trong 6 tháng, số người chết vì đói ở Việt Nam lớn hơn cả số người chết vì chiến tranh ở Pháp trong 6 đói năm 1945 đã diễn ra vô cùng khốc liệt Ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An NinhCho đến nay, nhiều tài liệu đã khẳng định, số người chết trong nạn đói kinh hoàng năm 1945 nhiều hơn con số 2 triệu, nhưng rất khó để có được số thống kê cụ đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình. Theo con số ghi chép từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto, ở xã Tây Lương thuộc Tiền Hải- Thái Bình nơi nạn đói diễn ra kinh khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả Bình- nơi diễn ra nạn đói thảm khốc nhấtTừ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói. Trong 70 năm qua, những hố chôn người tập thể vẫn là nỗi đau đớn, ám ảnh khôn nguôi của biết bao thế hệ. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người trên những phố Hà Nội buổi sáng sớm, hình ảnh người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…Xác người ở khắp nơi... Ảnh Võ An NinhNói về tính tàn khốc của nạn đói, cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết, “Nạn đói vô cùng khủng khiếp. Nó kéo dài cái chết khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê hương, mồ mả tổ tiên ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường xó chợ…”.Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” còn miêu tả hình ảnh những trẻ em nhay vú mẹ đã chết, người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết…Cuốn sách viết, “Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vô cùng thảm khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm, cả làng”.Tội ác chiến tranhThu gom xác người trên phố Ảnh Võ An NinhTrong tác phẩm “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn Tô Hoài, ông từng viết, “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.… “Sau đảo chính mùng chín tháng Ba, lính Nhật đi đẩy người đói không xuể. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày suốt đêm kéo xác chết lầm lũi qua”- Tô Hoài đói cơ cực, đau thương của nạn đói năm 1945 cũng từng được miêu tả trong tác phẩm văn học nổi tiếng “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.… “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…” Trích “Vợ nhặt”.Ảnh tư liệuNguyên nhân của nạn đói kinh hoàng năm 1945 ở Việt Nam được cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” phân tích rất đó, Nhật thu gom lúa gạo, Pháp dự trữ lương thực phục vụ cho chiến tranh, trong khi thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ. Không dừng lại ở đó, Nhật còn bắt nhân dân ta phá lúa, hoa màu để trồng cây đay. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.Còn nữaCuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Nguyễn Văn Tạo và GS. Furuta Moto công bố năm 1995, đến nay đã 20 năm trôi qua, cuốn sách được xem là tư liệu quý giá về sự kiện lịch sử Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.“Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” là công trình khoa học công phu với nhiều tư liệu quý. Để tiến hành nghiên cứu, biên soạn công trình này, các tác giả đã phải dày công sưu tập, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau tư liệu thành văn, tư liệu điều tra và khảo sát thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở HươngBài viết có sử dụng thông tin, tài liệu từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto
Sách về nạn đói năm 1945 hay nhất. Nạn đói thảm khốc nhất trong lịch sử Việt Nam, cướp đi tính mạng của nhiều con người vô tội và để lại biết bao hậu quả tang thương cho nhiều thế Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch SửNạn đói năm 1945 làm khoảng 400 ngàn – 2 triệu người chết. Ngày nay, nhắc đến nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu ấy người ta sẽ chỉ nhớ có thể, hoặc nếu hơn thì sẽ là những hình ảnh bi thảm trong những thước phim của bộ phim Sao Tháng Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ngàng và tìm về cái năm bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam hiện vì đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hãi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 còn gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được. Những ngôi hàng trống rỗng, những con đường ngập xác người hôi thối, những hố chôn tập thể dày đặc. Cái đói tiêu diệt mọi giá trị, phá hủy nhân cách, đập vỡ lương tri – những thảm kịch mà cái đói biến người ta thành quỷ dữ, những em bé bị chó hoang ăn thịt, cha con giết nhau vì một miếng khốc, kinh hoàng là tất cả những gì có thể dùng để nhắc về thảm kịch năm ấy. Con số 2 triệu người cứ như thế xoáy sâu dần dần vào lịch sử và sẽ nhắc cho độc giả thấy, 1945 không chỉ là một năm của độc lập huy hoàng, đó còn là năm của tang thương mất mát..Vợ NhặtVợ nhặt là truyện ngắn của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945, được in trong tập Con chó xấu xí 1962.Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công. Tác phẩm đang viết dang dở thì bị mất bản thảo, nhà văn sau đó đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn đánh giá của các nhà phê bình văn học, giá trị của Vợ nhặt là tố cáo tội ác của thực dân, phản ánh cuộc sống thê thảm của nhân dân trong nạn đói. Qua đó, Kim Lân đã bộc lộ sự cảm thông với nỗi khổ của những người dân nghèo, phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách Cũ Hà Nội… Băm sáu bố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang, phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba Bé Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Nganh với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên cái tàu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mối thời trang một thời…Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy chũ của Tản Đà đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới, hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng cái bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ vậy đó, với vài nét kí họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê…Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhất trong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa…”Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thi đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma kho, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kì. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. CHUYỆN CŨ HÀ NỘI chính là một tập kí sự về lịch sử…Ngày đăng 19/12/2020 Lần cập nhật cuối 19/12/2020
Thơ Về Nạn Đói 1945 ❤️️ Bài Thơ Đói Của Bàng Bá Lân ✅ Tuyển Tập Những Bài Thơ Viết Về Nạn Đói Năm Ất Dậu 1945 Hay Nhất. Nội Dung Bài Thơ Đói Của Bàng Bá LânCác Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Bài thơ ĐóiTác giả Bàng Bá Lân Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãiGiống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy đường,Rồi ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm. Khắp đường xa những xác đói rên nằmTrong nắng lửa, trong bụi lầm co đống giẻ chỉ còn đôi hố mắtĐọng chút hồn sắp tắt của thây ma;Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoaNhư muốn bắt những gì vô ảnh,Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,Một làn da đen xạm bọc xương nhe ra như những chiếc đầu lâu,Má hóp lại, răng hằn sâu gớm trẻ gái trai không còn phân biệt,Họ giống nhau như là những thây ma,Như những bộ xương còn dính chút daChưa chết đã bốc xa mùi tử khí!Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mìnhKhiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,Nằm cong queo mắt vẫn mở trừng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,Miệng méo xệch như khóc còn dang thây chết ba hôm còn nằm đó,Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo…Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờĐắp điếm vội những nấm mồ nông dối! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia ven đường những nấm mộ âm thầmĐược đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ nấm mộ quá nông trơ hài cốt,Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không vài trận mưa, nước xối chan chan,Ôi, thịt rữa xương tàn phơi rải rác! Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác,Những thây ma ngày lết đến càng đông;Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,Rụt rè xem có xác chết nào chăng!Từng chiếc xe bò bánh rít khô khanMỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt chồng chất lù lù như đống rác,Đó đây thò khô đét một bàn chânHay cánh tay gầy khô đét teo rănGiơ chới với như níu làn không khí,Như cầu cứu, như vẫy người chú ý…Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,Có tiếng cụa mình, tiếng nấc… Những tròng ngươiNhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệtĐược lắp đầy bằng xác chết… thường như mây bay rợp cả một miền…Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết! Họ là những người quê non nước Việt,Sống cần lao bên ruộng lúc đồng xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,Nước Việt sống nhờ mồ hôi họ ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,Chúng thi nhau cướp lúa của dân lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;Hết củ chuối, hết nhẵ khô cả sắn!Ngày giáp hạt không còn chi để nhấm,Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!Đói! Đói! Đói! Người nhao lên vì đói! Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia biệt quê hương, lê gót âm thầmTrên rải rác mọi nẻo đường đất gia đình dắt díu nhau lê bướcĐi lang thang mong sống tạm qua lúa lên hương, bông trĩu đầu tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!Họ ra đi hy vọng có ngày về!Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê!Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ! Cùng lúc ấy cũng trên đường rộn rã,Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng của dân đen, thóc của những ngườiĐang chết đói vì thực dân cướp chúng cướp phần vung xài huy hoắc,Phần chúng đem để mục nát trong kho!Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ…Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!Hai triệu người, vì thực dân, lìa bỏNước thân yêu, oan uổng chết đau thương,Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no người đi không về nữa, than ôi!Lúa chín gục, chẳng còn ai gặt hái!… Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!Quên sao được hai triệu người chết đói!Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi,Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!Những thây ma thất thểu đầy ngã gục không đứng lên vì… đói!Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm!… Bên cạnh Thơ Về Nạn Đói 1945, Tặng Bạn ❤️️ Bài Thơ Về Đất Nước Việt Nam ❤️️Những Bài Ca Ngợi Tổ Quốc Hay Các Bài Thơ Về Nạn Đói 1945 Tuyển tập những bài thơ nói về nạn đói 1945 ý nghĩa nhất. Đa nhim, nhớ lại một tứ thơ mười lăm năm trước Tác giả Trần Xuân An Ngồi trước trang sách mởbóng điện tròn sáng soinghe trĩu đau vầng tránnghẹn đặc giọt mồ hôi giọt mồ hôi cúi mặt trồng đaybỏng kiếp tôi đòitrên đồng lúa ngậm đòngphải cắn răng nhổ bỏ! chữ học trò giấy vởbóng đèn chao nét ngờingước lên nhìn giọt lệtự thuở nào, sắp rơi giọt lệ rơi từ hốc mắt hờn căm ngút trờihai triệu rưởi người quắt queo chết đói! sổ tay thơ buốt nhóimáu ứa ra chảy ròngnhư mồ hôi nước mắtbóng điện rực rỡ hồng giọt máu hồng nhoà ngực lạnh mưa đôngvẫn nắm chặt tầm vông lao vào đồn giặc! đâu chỉ là nước mắtchuyện tình xưa, đa nhim!bóng điện treo từng giọtlương tâm không im lìm thắp màu nắng nghìn xưabao dung nhân hậu ấm buồng timđể Hi-rô-shi-ma, Na-ga-sa-kicũng đêm đêm rưng rưnggiọt nắng! Nghi thức nhặt cơm rơi của bà mẹ quêTác giả Trần Xuân An Quý hạt ngọc trời, thói quen từ béchao vào muỗng canh những hạt cơm rơiđưa lên miệng, kính cẩn lời niệm khẽchưa từng nhạt phai, dù tuổi tám mươi Ất Dậu, bốn lăm, niềm đau trận đóicha lén ăn, để chết lịm con thơquá tủi thẹn, đã tự mình treo cổ!suốt đời bà, chưa khuây quên bao giờ chuyện quê buồn, tôi nghe từ tuổi nhỏngười thành ma đói, ngập chợ đầy đườngmột cơ khổ giữa trùng trùng cơ khổnăm năm giặc Nhật, mấy triệu đau thương trở mặt Đông Du, mị lừa Đại Áxót đau, biết trước, còn bịp ai đây!nay tóc bà vẫn trắng mây nhân hậulỡ cơm rơi, nhặt lại, dẫu đủ đầy nỗi mất nước khắc sâu vào số phậntiếc ngọc trời thành nghi thức nguyện cầuHiro, Naga cũng hằng tưởng niệmvới tiếng bẻ gươm? vỗ cánh bồ câu. Giời làm chết đói tháng baTác giả chưa rõ Giời làm chết đói tháng baNgười thì bán cửa bán nhà để ănNgười thì bán áo bán khănBán đi cho sạch, cốt ăn sống ngườiNgười thì bán mâm bán nồiNgười thì bán cả đồ chơi trong nhàNgười thì bán đất bán nhàNgười thì bán cả mâm xà bát hươngNgười thì bán sập bán giườngCó người bán chĩnh làm tương độ chầyGiời ơi đất hỡi có hay? Đói! Đói!Tác giả Tố Hữu Lúa mùa mất sạch mọi nơiGiặc còn vơ vét hết nồi đến thăng!Đói xo khắp xóm khắp làngRau dưa chết giá, ngô lang xạc xờBuồn trông đồng trắng bãi khôLúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi!Một quan gạo sáu lon thôiKhông tiền mua cám mà nuôi mẹ giàCháu thơ đói lả ôm bàCon đeo chân bố khóc la đêm ngày! Bà con ơi, tính sao đây?Bã nâu thính trấu nhét đầy bụng sao?Ăn xin, xin chẳng có nàoNằm lăn mà khóc, mà gào ai thương?Há đành chết lặng trên giườngHá đành gục xuống bên đường chết queo?Dậy đi, hỡi bạn đói nghèoTay cầm thúng mủng, lưng đèo cháu conSợ chi doạ nạt roi đònRủ nhau ta tới công môn ta đòiPhát cho ta gạo ngô khoaiCứu dân đi hỡi các ngài mặt mo!Lúa ta chất ứ đầy khoDành cho ai hưởng, chẳng cho ta dùng?Phát ngay cho kẻ bần cùngMẹ cha, con cháu, vợ chồng ta ăn!Bà con ơi, chớ tần ngầnCứu đời ta sống, phải cần tay ta!Tiến lên hăng nữa, đừng thaCầm dao, cầm súng xông ra phen nầy!Đánh cho giặc Nhật tan thâyVằm cho nát mặt cả bầy Việt gianDiệt trừ phát-xít dã manViệt Nam độc lập hoàn toàn tự doĐời dân ta mới ấm no! Chia Sẽ ❤️️ Thơ Về Quê Hương Đất Nước Hay ❤️️65+ Bài Thơ Về Tổ Quốc
Những bài ca dao - tục ngữ về "Nạn đói năm Ất Dậu" Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam hết gạo chết co đầy đường Dị bản Tàu cười, Tây khóc, Nhật lo, Việt Nam độc lập chết co đầy đường Khách cười, Tây khóc, Nhật no Việt Nam độc lập nằm co chết đường Đất này đất tổ đất tiên Đất này đất tổ đất tiên Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời Chém cha lũ Nhật côn đồ Chém cha lũ Nhật côn đồ Bắt người cướp của tha hồ thẳng tay Dân ta trăm đắng ngàn cay Thức ăn chẳng có trồng đay cho người Giời làm chết đói tháng ba Giời làm chết đói tháng ba Người thì bán cửa bán nhà để ăn Người thì bán áo bán khăn Bán đi cho sạch, cốt ăn sống người Người thì bán mâm bán nồi Người thì bán cả đồ chơi trong nhà Người thì bán đất bán nhà Người thì bán cả mâm xà bát hương Người thì bán sập bán giường Có người bán chĩnh làm tương độ chầy Giời ơi đất hỡi có hay? Được mùa chớ phụ ngô khoai Được mùa chớ phụ ngô khoai Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng Dị bản Được mùa chớ phụ môn khoai Đến năm Thân, Dậu lấy ai bạn cùng Nạn đói năm Ất Dậu Một nạn đói xảy ra tại miền Bắc trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 Giáp Thân đến tháng 5 năm 1945 Ất Dậu làm khoảng từ đến hai triệu người dân chết đói. Nguyên nhân trực tiếp là những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương Các cường quốc liên quan như Pháp, Nhật Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Ngoài ra còn có nguyên nhân tự nhiên lũ lụt, thiên tai, bệnh dịch tả.... Người chết vì đói năm Ất Dậu Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. Đay Một loại cây thuộc họ bông gòn, chiều cao từ 2 - 5 m, vỏ cây dùng để làm sợi. Trong Chiến tranh Đông Dương, Pháp và Nhật đã bắt dân ta "nhổ lúa trồng đay" nhằm phục vụ chiến tranh sản xuất quân trang, quân phục, làm sản lượng lương thực bị giảm mạnh, góp phần gây nên nạn đói năm Ất Dậu ở miền Bắc. Cây đay Tháng ba và tháng bảy, tháng tám là hai thời kì giáp hạt trong năm. Mâm xà Loại mâm thờ chân cao, không có nắp. Bình hương Loại lọ bằng gỗ, sành hoặc sứ, thường có hoa văn, để cắm và thắp nhang trên bàn thờ hoặc những chỗ thờ cúng khác. Tùy theo hình dạng mà bình hương cũng gọi là bát hương hoặc nồi hương. Bát hương và cặp lọ trang trí Sập Loại giường không có chân riêng, nhưng các mặt chung quanh đều có diềm thường được chạm trổ. Sập thường được làm bằng gỗ quý, thời xưa chỉ nhà giàu mới có. Cái sập Chĩnh Đồ đựng bằng sành hoặc đất nung, miệng hơi thu lại, đáy thót, nhỏ hơn chum. Xem thêm Cái chum Độ chầy Lần hồi qua ngày. Như độ nhật. Khoai môn Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo. Cây và củ khoai môn
Văn học Việt Nam và nạn đói năm 45 Trong quá trình học môn Ngữ Văn, chúng ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tác phẩm có bối cảnh hoặc hình tượng nhân vật.. dựa trên thực tế. Và mỗi học sinh phải có những kiến thức nhất định về những điều trên để có thể có được những bài phân tích văn học có chất lượng, giúp bài văn của bản thân trở nên đặc biệt, có chiều sâu. Ở bài viết ngày hôm nay, mình sẽ nêu ra một dấu mốc xuất hiện rất nhiều trong những áng văn Việt Nam, đó là "Nạn đói năm 1945". Qua những áng văn chương, chúng ta đã chứng kiến câu chuyện đau lòng của lịch sử Việt Nam. Đó là thời mà cái đói, cái rét bủa vây lấy đồng bào mình. Chắc hẳn, chưa ai quên được những câu thơ trong tác phẩm "Bếp lửa" của nhà thơ Bằng Việt "Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy" Cái sự "đói mòn đói mỏi" đầy ám ảnh ấy lặng lẽ bước vào văn chương, để rồi sau này ra đời những truyện, những hồi ký ám ảnh người đọc về sau. Có mấy ai mà không bồi hồi, xót xa khi nghĩ về nốt trầm mặc ấy của dân tộc.. Vậy, nỗi ám ảnh ấy đã xuất hiện trong văn chương như thế nào? Trước hết, chúng ta hãy tới với nhà văn Tô Hoài. Ông đã từng viết về nạn đói "Mỗi khi chợt nghĩ lại, tôi vẫn bàng hoàng về những năm khủng khiếp ấy", không chỉ vậy, tác giả "Vợ chồng A Phủ" còn từng nói rằng "chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá". Cái run rẩy kia âu cũng chính là cái run rẩy của Tô Hoài, của mỗi con người Việt Nam khi thấy hiểu trước nạn đói đã cướp đi tính mạng của hai triệu con người. Thật vậy, trong tác phẩm "Chuyện cũ Hà Nội", ông đã đưa cái "run rẩy" vào câu văn khi miêu tả chuyện mua bán trẻ em như mua bán một con lợn giữa những năm đói như sau "Lại thêm người đói các nơi ùn tới. Trong đầu chợ, nhan nhản người đem bán trẻ con. Ở làng tôi, người quảy trẻ con sang bán ở các chợ bên kia sông Hồng. Có người chuyên đi buôn trẻ con, như thời thường mua bán gà lợn. Nhưng đâu bây giờ cũng hết cái ăn, ai còn mua trẻ con làm gì. Bắt đi lắm khi lại dắt về. Khốn khổ". Lúc bấy giờ, Hà Nội đâu phải là nơi nạn đói hoành hành, thế nhưng người đói đổ về đây rất nhiều, điều này dẫn tới hình ảnh phố phường Hà Nội đầy thê lương, vất vưởng "Càng phấp phỏng, càng hoảng hốt khi trông thấy lũ lượt người đói các nơi kéo vào.. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày đêm xe kéo xác chết lầm lũi qua". Chừng ấy đủ khiến người ta hình dung một hiện thực khắc nghiệt, tang tóc đến nghẹn lòng. Nhắc đến sự kiện nạn đói năm 45 trong văn học thì không thể không kể đến Nam Cao. Các tác phẩm truyện ngắn của ông, mỗi truyện khắc họa một bi kịch khác nhau của phận người trong cái đói, cái nghèo. Ông đã từng đau đớn mà viết rằng "Con chó chết vào giữa cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể". Nam Cao đã nhìn ra cái đói đã tiềm tang tự thuở nào trong đời sống của những con người thấp cổ bé họng. Đó là hình ảnh một lão Hạc sống leo lắt qua ngày trong khu vườn chẳng còn gì để bán. Đó là nhân vật bà lão đói quá lâu, cho tới khi có được một bữa no thì cơ thể không thể chịu được bữa no bất thường ấy, rồi bà lão lăn ra chết. Trong cái nghèo, cái đói, và sự cô độc ấy, con người ta dường như phải giành giật sự sống, dù chỉ là hi vọng mong manh nhất. Tương tự với những áng văn của Nam Cao, tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân cũng phản ánh vô cùng chân thực cái rùng rợn của nạn đói năm 45. Truyện lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 tràn lan khiến người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng ma. Cái hình ảnh người "chết như ngả rạ" khiến chúng ta không khỏi sợ hãi trước trò đùa của tạo hóa. Thế nhưng, trong hoàn cảnh tước cái đói, phải đối diện tử thần, nhiều người mất nhân tính, cốt có cái đưa vào miệng, vẫn có những câu chuyện xúc động. Đó chính là câu chuyện của Tràng và thị, những con người chưa biết ngày mai sẽ như thế nào nhưng họ vẫn sẵn sàng tìm đến nhau, trao nhau hơi ấm tình người. Không chỉ trong các tác phẩm truyện ngắn, cái đói cái nghèo ấy cũng xuất hiện ngay cả những dòng thơ. Trong tác phẩm "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", Văn Cao đã phải đau đớn mà thốt lên rằng "Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hóa tà ma.. Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang.. Não nuột khóc tàn sương Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây.." Hay như trong tác phẩm "Ô Cầu Dền" của nhà văn Bảo Sinh, cái chết giữa những tháng ngày đói khổ ấy đã trở thành cái chết chung, là "mả chôn chung" của cả dân tộc "Năm 1945, đây là mả chôn chung của nạn nhân chết đói. Hàng ngày, xe bò chở đầy xác chất trên phủ mảnh chiếu, chân tay thò ra ngoài, lọc cọc, rập rình, xe đu đưa những cánh tay, cẳng chân cũng đu đưa theo. Xác chết được đổ đầy vào một cái hố chôn chung, sau đó lấp đất phẳng, không có dấu hiệu mồ mả gì cả". Những câu văn, lời thơ trên chua chát, đắng cay bởi nó có hiện thực, có mồ hôi, nước mắt, xương máu của đồng bào ta. Từng hình ảnh cứ hiện lên sống động qua từng con chữ như muốn nhắc nhở người ta ghi nhớ mãi, như ghi nhớ một thứ kí ức đớn đau đến cứa da cứa thịt của dân tộc này! Cảm ơn mọi người đã đọc bài của mình nạn đói văn học ý nghĩa
thơ về nạn đói 1945